I/ Hình thức thi:
Trắc nghiệm 25 câu chỉ có 30 phút , không được dùng tài liệu
II/ Tài liệu
Sau đây là file bài giảng của chính giáo viên giảng dạy , các anh chị nhấp vào tên ở dưới để tải xuống
Bản chất của công pháp quốc tế
Các nguyên tắc của Luật công pháp quốc tế
Chủ thể của luật công pháp quốc tế
Luật biển
Bài giảng về ngoại giao
File audio ghi âm bài giảng được ghi âm trên lớp :
Phần 1
III/ Nội dung thi và bài tập:
Nội dung thi gồm 5 bài về lý thuyết và bài tập về cách vẽ đường biên giới biển , gôm những trọng tâm sau:
1/ Bản chất của công pháp quốc tế
2/ Các nguyên tắc của Luật công pháp quốc tế
3/ Chủ thể của luật công pháp quốc tế
4/ Luật biển quốc tế
5/ Luật quốc tế về ngoại giao
6/ Phương pháp làm phần bài tập
7/ Các bài trắc nghiệm mẫu
8/ Đề cương lý thuyết
ÔN TẬP CÔNG PHÁP QUỐC TẾ
Câu 1: Luật quốc tế là một
hệ thống pháp luật độc lập:
Luật quốc tế hiện đại là tổng thể những
nguyên tắc, những qui phạm pháp luật quốc tế do các chủ thể tham gia vào quan
hệ pháp luật quốc tế xây dựng trên cơ sở tự nguyện & bình đẳng, thông qua
đấu tranh & thương lượng nhằm điều chỉnh mối quan hệ nhiều mặt (chủ yếu là
quan hệ chính trị) giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau (trước tiên & chủ
yếu giữa các quốc gia) trong những trường hợp cần thiết pháp luật quốc tế được bảo
đảm thi hành bằng những biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thể do chính các
chủ thể pháp luật quốc tế thi hành hoặc bằng sức đấu tranh của nhân dân cùng dư
luận tiến bộ thế giới. Hệ thống là bao gồm tổng thể cơ quan, bộ phận mà nó bổ
sung, hổ trợ trong một chỉnh thể thống nhất.
Pháp luật quốc gia cũng được hiểu là một hệ
thống, mỗi quốc gia có một hệ pháp luật riêng & theo nghĩa nầy luật quốc tế
cũng được coi là một hệ thống pháp luật bao gồm những hệ thống nguyên tắc,
những qui phạm pháp luật quốc tế nhằm điều chỉnh các mối quan hệ giữa các
quốc gia với nhau
Luật quốc tế được coi là một hệ thống pháp
luật độc lập bởi vì so với hệ thống pháp luật của từng quốc gia, luật quốc tế
có những đặc thù cơ bản mà các dấu hiệu của luật mỗi quốc gia không có các dấu
hiệu đặc thù đó( nói thêm về đặc điểm của luật quốc tế ở câu 2)
Câu 2: Khái niệm & đặc
điểm cơ bản của luật quốc tế
Khái niệm:Luật quốc tế hiện đại hay
còn gọi là công pháp quốc tế là tổng thể những nguyên tắc, những qui phạm pháp
luật quốc tế do các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp lí quốc tế xây dựng trên
cơ sở tự nguyện & bình đẳng, thông qua đấu tranh & thương lượng nhằm
điều chỉnh mối quan hệ nhiều mặt (chủ yếu là quan hệ chính trị) giữa các chủ
thể luật quốc tế với nhau (trước tiên & chủ yếu giữa các quốc gia) trong
những trường hợp cần thiết luật quốc tế được bảo đảm thi hành bằng những biện
pháp cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thể do chính các chủ thể luật quốc tế thi hành
hoặc bằng sức đấu tranh của nhân dân cùng dư luận tiến bộ Thế giới.
Đặc điểm:Từ khái niệm nêu trên, luật
quốc tế có những đặc điểm cơ bản như sau:
Đối tượng điều chỉnh : nếu
như luật trong nước điều chỉnh về quan hệ xã hội phát sinh trong phạm vi lãnh
thổ quốc gia & quan hệ có iếu tố nước ngoài thì luật quốc tế chỉ điều chỉnh
những quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống uốc tế như quan hệ chính trị
,kinh tế,văn hóa,khoa học-kỷ thuật,môi trường…giữa các chủ thể của luật quốc tế
với nhau mà chủ yếu là những quan hệ chính trị. Tuy nhiên không phải tất cả
quan hệ quốc tế đều là đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế
(VD: Quan hệ quốc tế theo
con đường các tổ chức chính trị –xã hội…không do luật quốc tế chính trị điêù
chỉnh)
Trình tự xây dựng các qui
phạm pháp luật quốc tế: trong hệ thống quốc tế dựa trên nguyên tắc cơ bản bình
đẳng về chủ quyền các quốc gia nên không có cơ quan làm luật. Con đường duy
nhất để hình thành các qui phạm pháp luật quốc tế đó là sự thỏa thuận giữa các
chủ thể luật quốc tế với nhau dưới hình thức ký kết các điều ước quốc tế ( qui
phạm thành văn) ; cùng nhau thừa nhận những tập quán quốc tế trong quan hệ giữa
họ( qui phạm bất thành văn). Đây là đặc trưng quan trọng nhất.
Chủ thể của luật quốc tế:
Các quốc gia có chủ quyền:chủ quyền quốc gia trong
lĩnh vực đối nội là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình,
quyền làm luật, quyền giám sát việc thi hành pháp luật, quyền xét xử những hành
vi vi phạm pháp luật của quốc gia.
Trong lĩnh vực đối ngoại đó
là quyền độc lập trong hệ thống quốc tế ,tự do quan hệ không lệ thuộc vào bất
cứ thế lực nào, hai mối quan hệ này có quan hệ mật thiết với nhau,chỉ vì khi
quốc gia có quyền tối cao trong quan hệ đối ngoại thì mới có quyết định trong
quan hệ đối ngoại, Quốc gia là chủ thể đặc biệt khi tham gia vào họat động tư
pháp quốc tế, được miễn trừ về tư pháp quốc tế: quyền miễn trừ về xét xử, quyền
miễn trừ về tài sản, quyền miễn trừ về thi hành án.
Các dân tộc đang đấu tranh
giành độc lập
được xem là quốc gia đang hình thành, đứng lên đấu tranh giành độc lập, thành
lập quốc gia có chủ quyền, có quyền tham gia đại diện ký kết các điều ước quốc
te với các quốc gia khác, tự do không bị lệ thuộc vào bất cứ quốc gia nào.
Các tổ chức quốc liên chính
phủ ( liên quốc gia) là tổ chức thành lập trên sự liên kết giữa các quốc gia, & họat
động dưới sự thỏa thuận giữa các quốc gia (VD: LHQ, Asian, EU…).
Tổ chức phi chính phủ được thành lập dưới sự thỏa
thuận giữa các thể nhân với pháp nhân thì không được coi là chủ thể của luật
quốc tế, không được thừa nhận của luật quốc tế (VD: Hội luật gia thế giới, Hội
Liên hiệp phụ nữ thế giới…)
Tư cách chủ thể của tòa
thánh Vatican
tòa thánh Vatican không phải là một quốc gia, tư cách chủ thể của Vatican được đặt ra
Biện pháp bảo đảm thi hành
luật quốc tế khi xây dựng các điều ước quốc tế các bên thường thỏa thuận
các biện pháp cưỡng chế để áp dụng cho các quốc gia vi phạm.Đó là những quan hệ
mà tự các chủ thể thỏa thuận xây dựng các biện pháp nhất định vì lợi ích của
chính họ. Các chủ thể bị hại được quyền sử dụng một số biện pháp nhất định cho
quốc gia gây hại. Biện pháp cưỡng chế được thể hiện dưới hai hình thức:
Cưỡng chế cá thể : trên bình diện quốc tế
không có cơ quan cưỡng chế tập trung thường trực, những biện pháp do chính chủ
thể của luật quốc tế thực hiện dưới hình thức cá thể, riêng lẻ tức là chủ thể
bị hại được quyền sử dụng những biện pháp cưỡng chế trả đũa hay biện pháp tự vệ
đối với chủ thể gây hại cho mình (rút đại sứ về nước, cắt đứt quan hệ
ngoại giao, bao vây kinh tế, giáng trả…)
Biện pháp cưỡng chế tập thể tức là quốc gia bị hại có
quyền liên minh các quốc gia trên cơ sở các cam kết phù hợp để chống lại quốc
gia gây hại cho mình.
LHQ giao cho HĐBA LHQ có
nhiệm vụ giữ gìn hòa bình & an ninh của các quốc gia trong khuôn khổ tuân
thủ hiến chương LHQ, có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế & trừng
phạt kể cả dùng vũ lực chống lại các quốc gia vi phạm.
Ngoài ra vấn đề dư luận tiến
bộ trên thế giới & sự đấu tranh của nhân dân các nước cũng là biện pháp để
cho pháp luật quốc tế phải tuân theo.
Câu 3: So sánh điều ước quốc
tế & tập quán quốc tế
Điều ước quốc tế : được coi là văn bản pháp
lí quốc tế do các chủ thể của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng trên cơ sở tự
nguyện & bình đẳng nhằm ổn định thay đổi hay chấm dứt quyền & nghĩa vụ
pháp lí đối với nhau trong bang giao quốc tế phù hợp với những nguyên tắc cơ
bản của luật quốc tế
Tập quán quốc tế: là qui tắc xử sự chung được
hình thành trong quan hệ quốc tế do một hoặc một số quốc gia đưa ra & áp
dụng lâu dài trong thực tiễn (được áp dụng từ hai chủ thể trở lên)
Giống nhau
Cả hai đều là nguồn chính của luật quốc
tế, là những hình thức chứa đựng các qui phạm pháp luật quốc tế, đều có giá trị
hiệu lực như nhau.
Bản chất như nhau đều là dựa trên sự thỏa
thuận giữa các chủ thể với nhau, điều ước quốc tế thỏa thuận ký kết, tập quán
quốc tế thỏa thuận thừa nhận.
Nội dung của cả điều ước quốc tế & tập
quán quốc tế phải phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế .
Đều điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
giữa các chủ thể của luật quốc tế với nhau như những quan hệ về chính trị, văn
hóa, kinh tế…
Khác nhau
Hình thức thể hiện : sự thỏa thuận Điều ước
quốc tế là ký kết những qui phạm pháp luật tồn tại dưới dạng văn bản,thể hiện
rõ ràng cụ thể, còn sự thỏa thuận của tập quán quốc tế là để đi đến thừa nhận
những qui phạm pháp luật bất thành văn
Quá trình hình thành Trình tự lập pháp đối với điều
ước quốc tế là chính xác & cụ thể hơn thông qua một thủ tục kí kết bao gồm
các quá trình đàm phán, sọan thảo văn bản, thông qua văn bản, ký điều ước quốc
tế,phê chuẩn hoặc phê duyệt
Trình tự lập pháp của tập quán quốc tế thông
qua sự áp dụng thừa nhận những qui tắc xử sự trong thực tiễn trãi qua một thời
gian dài lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian liên tục.
Phạm vi điều chỉnh của điều ước quốc tế có
phạm vi rộng hơn tập quán quốc tế
Câu 4: So sánh luật quốc tế
& luật quốc gia
Luật quốc tế hiện đại là tổng thể những
nguyên tắc, những qui phạm pháp luật quốc tế do các chủ thể tham gia vào
quan hệ pháp luật quốc tế xây dựng trên cơ sở tự nguyện & bình đẳng, thông
qua đấu tranh & thương lượng nhằm điều chỉnh mối quan hệ nhiều mặt (chủ yếu
là quan hệ chính trị) giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau (trước tiên &
chủ yếu giữa các quốc gia) trong những trường hợp cần thiết cần thiết luật quốc
tế được bảo đảm thi hành bằng những biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thể
do chính các chủ thể luật quốc tế thi hành hoặc bằng sức đấu tranh của nhân dân
cùng dư luận tiến bộ Thế giới.
Về đối
tượng điều chỉnh pháp luật quốc gia điều chỉnh những quan hệ xã
hội phát sinh trong nội bộ phạm vi lãnh thổ , còn pháp luật quốc tế điều chỉnh
những quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống sinh họat quốc tế giữa các
chủ thể luật quốc tế.
Về chủ thể chủ thể luật quốc gia là
thể nhân, pháp nhân & nhà nước tham gia với tư cách là chủ thể đặc biệt khi
nhà nước là một bên trong quan hệ, còn chủ thể của pháp luật quốc tế là các
quốc gia có chủ quyền, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập, các tổ chức
liên chính phủ & các chủ thể khác.
Về trình tự xây dựng Pháp
Luật: việc
xây dựng pháp luật & trình tự xây đựng pháp luật của pháp luật quốc gia do
cơ quan lập pháp thực hiện còn xây dựng & trình tự xây dựng pháp luật quốc
tế do không có cơ quan lập pháp nên khi xây dựng các qui phạm thành văn bất
thành văn chủ iếu do sự thỏa thuận giữa các chủ thể có chủ quyền quốc gia của
luật quốc tế.
Về biện pháp bảo đảm thi
hành pháp luật
quốc gia có bộ máy cưỡng chế tập trung thường trực như quân đội, cảnh sát,tòa
án nhà tù…làm biện pháp bảo đảm thi hành, còn pháp luật quốc tế thì không có bộ
máy cưỡng chế tập trung thường trực mà chỉ có một số biện pháp cưỡng chế nhất
định mang tính tự cưỡng chế dưới hình thức riêng rẽ hoặc tập thể
Về phương pháp điều chỉnh
các ngành luật
trong hệ thống pháp luật quốc gia có phương pháp điều chỉnh khác nhau còn các
ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc tế thì chỉ có một phương pháp điều
chỉnh là sự thỏa thuận.
Câu 5: Phân tích bản chất
của luật quốc tế hiện đại trên cơ sở so sánh với LQT củ .
Luật quốc tế hiện đại là tổng thểnhững nguyên
tắc, những qui phạm pháp luật quốc tế do các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp
luật quốc tế xây dựng trên cơ sở tự nguyện & bình đẳng, thông qua đấu tranh
& thương lượng nhằm điều chỉnh mối quan hệ nhiều mặt (chủ yếu là quan hệ
chính trị) giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau (trước tiên & chủ yếu
giữa các quốc gia) trong những trường hợp cần thiết luật quốc tế được bảo đảm thi
hành bằng những biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thể do các chủ thể luật
quốc tế thi hành hoặc bằng sức đấu tranh của nhân dân cùng dư luận tiến bộ Thế
giới.
Như ta biết, nếu như luật quốc gia đều có
liên quan chặt chẽ đến hạ tầng kỷ thuật nhất định & sự phát triển của nó
gắn với một hình thái kinh tế – xã hội cụ thể thì luật quốc tế cũng vậy.
Do ảnh hưởng của CM tháng10 Nga, do kết quả đấu tranh của các lực lượng tiến bộ
cách mạng & yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Luật quốc tế đã có những
thay đổi sâu sắc & thực chất là luật quốc tế mới về chất. Luật quốc tế hiện
đại & bản chất tiến bộ khác hẳn với luật quốc tế cũ. Điều này dễ nhận thấy
qua qúa trình tham gia vào quan hệ pháp lý quốc tế & là chủ thể của luật
quốc tế. Luật quốc tế củ còn có những nguyên tắc, chế định phản động như quyền
tiến hành chiến tranh, quyền của kẻ chiến thắng, chế định chiếm cứ đầu tiên,
chế định thuôc địa, chế định bảo hộ…
Từ sau CM tháng10 Nga, Luật quốc tế hiện đại
không còn là pháp luật bị áp đặt bởi sức mạnh, bởi các quốc gia mạnh, các qui
phạm của luật quốc tế đã & đang xây dựng trên cơ sở thỏa thuận, đàm phán,
thương lượng. Do đó không một quốc gia nào có quyền áp đặt các qui phạm pháp
luật cho các quốc gia khác khi không cósự đồng ý thỏa thuận của họ, “quyền chiến
tranh” không còn tồn tại trong luật quốc tế hiện đại & thay vào đó các
nguyên tắc, các chế định mới hết sức quan trọng, tiến bộ, dân chủ như: cấm
chiến tranh xâm lược, cấm dùng vũ lực & đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ
quốc tế.
Đồng thời luật quốc tế hiện đại kế thừa &
phát triển tiến bộ thêm các nguyên tắc & qui phạm mang tính dân chủ của
luật quốc tế cũ như : nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia,
không can thiệp vào nội bộ của nhau, tận tâm thực hiện các cam kết quốc gia,
điều này có thể hiện đại đã loại trừ sự phân biệt giữa các quốc gia, giữa các
nước văn minh & các nước lạc hậu, giữa các nước phát triển & các nước
chậm phát triển. Các nước lớn nhỏ đều có quyền tham gia vào quan hệ quốc tế
& trở thành chủ thể luật quốc tế hiện đại.
Sự phân tích trên cho ta thấy rằng luật quốc
tế chỉ có thể được xây dựng trên nền tảng dân chủ, tiến bộ chung & chỉ có
trên cơ sở được thoả thuận chấp nhận của tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, mức độ
dân chủ tiến bộ của từng qui phạm luật quốc tế còn tùy thuộc vào sự tương quan
lực lượng giữa tiến bộ & phản dân chủ trên chiến trường quốc tế & trong
nội bộ của mỗi quốc gia.
Câu 6: Phân tích các yếu tố
cấu thành quốc gia
Sự tồn tại của một quốc gia chủ thể cơ bản
của luật quốc tế có liên quan mật thiết với hình thức tổ chức nhà nước, mặc dù
hình thức tổ chức của nhà nước rất đa dạng, tuy nhiên ở mọi giai đọan phát
triển của lich sử nhà nước & pháp luật quốc gia được thừa nhận là chủ thể
cơ bản của luật quốc tế.
Cho đến nay dù chưa có một định nghĩa thống
nhất về quốc gia, tuy nhiên theo luật quốc tế hiện địa thì để coi quốc gia là
một thực thể của luật quốc tế, quốc gia phải có các tiêu chí sau:
Có lãnh thổ xác định - Có dân cư ổn định - Có
chính phủ có chủ quyền- Có khả năng thiết lập & thực hiện các quan hệ đối
ngoại.
Lãnh thổ quốc gia là một phần của trái
đất bao gồm vùng đất, vùng nước, vùng trời, dưới lòng đất, lãnh thổ của quốc
gia phải được xác định rõ ràng bởi đường biên giới trên đất liền với các quốc
gia lân cận hay vùng không thuộc quốc gia nào, quốc gia đó phải được xác định
trên bản đồ địa lí hành chánh thế giới với vị trí & địa danh rõ ràng, tuy
nhiên giữa các quốc gia có thể có các vùng lãnh thổ tranh chấp, nhưng để đảm
bảo yếu tố lãnh thổ xác định thì quốc gia đó phải có vùng lãnh thổ hòan tòan
được xác định rõ ràng thuộc chủ quyền của mình.
Một quốc gia không thể tách rời yếu tố con
người nghĩa là có dân cư ổn định trên lãnh thổ đó, đa phần dân cư phải là công
dân nước sở tại, sinh sống ổn định lâu dài là những người có địa vị pháp lí có
quyền & nghĩa vụ đối với quốc gia, quốc gia cũng thực hiện quyền &
nghĩa vụ của mình đối với công dân của mình, có lich sử truyền thống văn hóa
gắn bó lâu dài với quốc gia sở tại.
Chính phủ là yếu tố cần phải có để điều hành
xã hội, có chủ quyền được nhân dân tín nhiệm có đầy đủ chủ quyền & quyền
lực trong việc thực hiện các quan hệ đối nội , đối ngoại, nghĩa là có thực
quyền điều hành quốc gia trong lập pháp, hành pháp & tư pháp quyết định vận
mệnh chính trị của dân tộc, tự do lựa chọn hình thức, thể chế chính trị, kinh
tế, văn hóa – xã hội cho đất nước mình, chính phủ đó phải nắm được quyền lực
đối ngoại nghĩa là nắm quyền đại diện quốc gia tham gia vào các quan hệ quốc
tế.
Quốc gia phải có khả năng thiết lập &
thực hiện các quan hệ đối ngoại trong cả mặt thể hiện vai trò một chủ thể luật
quốc tế, có khả năng về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội để có thể thực
hiện quyền quyết định mọi vấn đề của quốc gia mà các quốc gia khác không có
quyền can thiệp, đồng thời quốc gia ấy phải tôn trọng & thực thi đầy đủ các
nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế khi tham gia vào các quan hệ quốc tế.
Câu 7:Quốc gia là chủ thể đầu tiên, chủ thể cơ bản
& chủ yếu luật quốc tế
Quan hệ pháp luật quốc tế là những quan hệ
phát sinh tồn tại & phát triển chủ yếu giữa các quốc gia với nhau. Quốc gia
là chủ thể đầu tiên, chủ thể trước hết xây dựng pháp luật quốc tế. Trong quá
trình thi hành luật quốc tế, quốc gia cũng là chủ thể đầu tiên cho việc thi
hành pháp luật quốc tế.
Chủ thể của luật quốc tế hiện đại là những
thực thể đang tham gia quan hệ pháp lí luật quốc tế một cách đôc lập có đầy đủ
quyền & nghĩa vụ pháp luật quốc tế đồng thời phải gánh chịu trách nhiệm
pháp lí quốc tế một cách độc lập do chính hành vi vi phạm pháp luật quốc tế gây
ra trên cơ sở các qui phạm pháp luật quốc tế. Hầu hết các nhà làm luật công
nhận quốc gia là chủ thể chủ yếu cơ bản của luật quốc tế hiện đại bởi vì :
Quốc gia cũng là chủ thể cơ bản của luật quốc
tế bởi vì nếu không có quốc gia thì bản thân luật quốc tế không có cơ sở tồn
tại và phát triển.Khi các quốc gia ra đời có mối quan hệ mật thiết với nhau và
chịu sự điều chỉnh trong quan hệ quốc tế, quốc gia được coi là hạt nhân của
tòan bộ hệ thống pháp luật quốc tế.
Quốc gia là chủ thể đầu tiên, chủ thể trứơc
hết xây dựng pháp luật quốc tế; quốc gia là chủ thể ban đầu của luật quốc tế
bởi vì nó xuất hiện như một chủ thể đầu tiên của luật quốc tế. Trong quá trình
thi hành luật quốc tế, quốc gia cũng là chủ thể đầu tiên cho việc thi hành pháp
luật quốc tế.
Quốc gia cũng là chủ thể cơ bản & chủ yếu
trong việc thi hành áp dụng biện pháp cưỡng chế việc tuân thủ áp dụng pháp
luật quốc tế.
Quốc gia là chủ thể duy nhất có quyền tạo lập
ra & khả năng tạo lập ra chủ thể mới luật quốc tế đó là các tổ chức liên
chính phủ.
v Quốc gia là chủ thể cơ bản, chủ thể ban đầu luật quốc tế bởi vì quốc
gia là một thực thể bao gồm 3 yếu tố cơ bản:
Lãnh thổ: là một trong những yếu tố
cần thiết cho sự ra đời tồn tại & phát triển của mỗi quốc gia. Lãnh thổ
quốc gia là một phần của trái đất bao gồm vùng đất, vùng nước, vùng trời,
dưới lòng đất, lãnh thổ của quốc gia phải được xác định rõ ràng bởi đường biên
giới trên đất liền với các quốc gia lân cận hay vùng không thuộc quốc gia nào,
quốc gia đó phải được xác định trên bản đồ địa lí hành chánh thế giới với vị
trí & địa danh rõ ràng, tuy nhiên giữa các quốc gia có thể có các vùng lãnh
thổ tranh chấp, nhưng để đảm bảo yếu tố lãnh thổ xác định thì quốc gia đó phải
có vùng lãnh thổ hòan tòan được xác định rõ ràng thuộc chủ quyền của mình.
Dân cư : một quốc gia không thể
tách rời yếu tố con người nghĩa là có dân cư ổn định trên lãnh thổ đó, đa phần
dân cư phải là công dân nước sở tại, sinh sống ổn định lâu dài là những người
có địa vị pháp lí có quyền & nghĩa vụ đối với quốc gia, quốc gia cũng thực
hiện quyền & nghĩa vụ của mình đối với công dân của mình, có lich sử truyền
thống văn hóa, nguồn gốc gắn liền với lãnh thổ mà họ đang sinh sống ,gắn bó lâu
dài với quốc gia sở tại.
Chính phủ : là yếu tố cần phải có để
điều hành xã hội, có chủ quyền được nhân dân tín nhiệm có đầy đủ chủ quyền
& quyền lực trong việc thực hiện các quan hệ đối nội , đối ngoại, nghĩa là
có thực quyền điều hành quốc gia trong lập pháp, hành pháp & tư pháp quyết
định vận mệnh chính trị của dân tộc, tự do lựa chọn hình thức, thể chế chính
trị, kinh tế, văn hóa – xã hội cho đất nước mình, chính phủ đó phải nắm được
quyền lực đối ngoại nghĩa là nắm quyền đại diện quốc gia tham gia vào các quan
hệ quốc tế, có khả năng thiết lập quan hệ pháp luật quốc tế.
[ Khi một quốc gia đáp ứng
được các điều kiện về lãnh thổ,dân cư ổn định, quốc gia có chủ quyền, chính phủ
có khả năng quan hệ pháp luật quốc tế thì kể từ thời điểm đó quốc gia trở thành
chủ thể đương nhiên, chủ thể mới của luật quốc tế mà không phụ thuộc bất kỳ sự
công nhận nào.
Câu 8: Vì sao tổ chức liên
chính phủ là chủ thể phái sinh, thứ sinh không có chủ quyền
Chủ thể của luật quốc tế hiện đại là một thực
thể đang tham gia quan hệ pháp lí luật quốc tế một cách độc lập có đầy đủ quyền
& nghĩa vụ pháp luật quốc tế đồng thời phải gánh chịu trách nhiệm pháp lí
quốc tế một cách độc lập do chính hành vi vi phạm pháp luật quốc tế gây ra trên
cơ sở các qui phạm pháp luật quốc tế.
Luật quốc tế công nhận quốc gia là chủ thể
chủ yếu của luật quốc tế, bên cạnh đó còn các tổ chức liên chính phủ, các dân
tộc đang đấu tranh giành độc lập & tư cách chủ thể Vatican cũng được xem là
chủ thể luật quốc tế, trong đó tổ chức liên chính phủ là chủ thể phái sinh, thứ
sinh không có chủ quyền vì những lý do sau:
Tổ chức liên chính phủ được thành lập do sự
thỏa thuận của các quốc gia, tư cách chủ thể của các tổ chức liên chính phủ có
từ thời điểm các văn bản, hiến chương, điều lệ phát sinh hiệu lực.
Quyền năng chủ thể của tổ chức liên chính phủ
không giống nhau, quyền năng đó dựa trên các văn bản, hiến chương điều lệ,quy
chế của các tổ chức đó.
Các tổ chức liên chính phủ xuất hiện &
tồn tại do các quốc gia thành lập nên, không tự nhiên mà có, mà do thỏa thuận
của các quốc gia có chủ quyền với nhau.Các quốc gia thỏa thuận thành lập cũng
như thỏa thuận, quyền & nghĩa vụ của các tổ chức liên chính phủ
phải dựa trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản luật quốc tế hiện đại. Vì chỉ được
xem là chủ thể của luật quốc tế hiện đại khi các tổ chức này được thanh lập phù
hợp với những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại.
Các tổ chức liên chính phủ được thành lập
nhằm những mục đích nhất định & trong những lĩnh vực họat động, phạm vi
họat động của tổ chức đó do các quốc gia thành viên qui định cho nó. Vì mỗi tổ
chức liên chính phủ chỉ giải quyết một công việc cụ thể & trong khuôn khổ
sự thỏa thuận của các quốc gia giao cho nó.
Là chủ thể chuyên biệt bởi vì nó chỉ họat
động gói ghém trong phạm vi hiến chương điều lệ của tổ chức đó qui định, nếu
họat động ra ngoài điều lệ thì vi phạm hiến chương điều lệ của tổ chức, họat
động trong một số lĩnh vực chuyên môn, trong lĩnh vực họat động nhất định.
Là chủ thể hạn chế luật quốc tế bởi vì chủ
thể nó rộng lớn nhưng không thể so sánh với chủ thể của luật quốc gia.
Là chủ thể không có chủ quyền của luật quốc
tế bởi vì tổ chức quốc tế liên chính phủ không phải là chủ thể có chủ quyền của
luật quốc tế, vì chủ quyền quốc gia là chủ quyền độc lập trong luật quốc tế mà
tổ chức liên chính phủ không thể có được chủ quyền đó.
Tư cách chủ thể của tổ chức liên chính phủ có
từ thời điểm khi các văn bản hiến chương, điều lệ phát sinh hiệu lực.
Tư cách chủ thể luật quốc tế cũng nằm trong
hai phạm trù năng lực pháp luật & năng lực hành vi, tuy nhiên quyền năng
chủ thể được gọi là thuộc tính tự nhiên vốn có của quốc gia, bởi vì sự tồn tại
của nó khẳng định tư cách chủ thể, không cần bất kì một sự cộng nhận nào.
Quyền năng chủ thể của tổ chức liên chính phủ
nó không dựa vào thuộc tính “ tự nhiên “ vốn có như quốc gia mà quyền năng này
được ghi nhận ngay chính trong hiến chương, điều lệ thành lập nên tổ chức do
các quốc gia thỏa thuận thành lập.
Câu 9:Tại sao thể nhân, pháp nhân không là chủ thể
của luật quốc tế hiện đại
Theo các nhà làm luật quốc tế thì chủ thể
luật quốc tế hiện đại là các quốc gia có chủ quyền, các dân tộc đang đấu tranh
giành độc lập, các tổ chức liên chính phủ & Vatican . Ngoài 4 chủ thể trên luật
quốc tế hiện đại không có chủ thể nào khác. Vì vậy thể nhân, pháp nhân không
được xem là chủ thể luật quốc tế hiện đại .
Nói thể nhân, pháp nhân không được xem
là chủ thể luật quốc tế hiện đại vì những lý do sau:
Các tổ chức liên chính phủ xuất hiện &
tồn tại do các quốc gia thành lập nên, không tự nhiên mà có, mà do thỏa thuận
của các quốc gia có chủ quyền với nhau. Các quốc gia thỏa thuận thành lập cũng
như thỏa thuận, quyền & nghĩa vụ của các tổ chức liên chính phủ
phải dựa trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản luật quốc tế hiện đại. Tư cách chủ
thể của tổ chức liên chính phủ có từ thời điểm khi các văn bản hiến chương,
điều lệ phát sinh hiệu lực.
Quyền năng chủ thể có giới hạn được gọi là
chủ thể hạn chế, vì vậy các tổ chức quốc tế khác nhau sẽ có quyền năng chủ
thể luật quốc tế không giống nhau.
Là chủ thể không có chủ quyền của luật quốc
tế bởi vì tổ chức quốc tế liên chính phủ không phải là chủ thể có chủ quyền của
luật quốc tế, vì chủ quyền quốc gia là chủ quyền độc lập trong luật quốc tế mà
tổ chức liên chính phủ không thể có được chủ quyền đó.
Trong quan hệ pháp luật quốc tế là quan hệ
bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia với nhau vì khi ngồi vào bàn đàm phán
thỏa thuận ký kết điều ước quốc tế các quốc gia đều là những con người cụ thể,
đây là những người được quốc gia giao cho họ, ủy quyên cho họ được xây dựng nên
những qui phạm pháp luật quốc tế. Đây là những con người luôn đặt lợi ích quốc
gia lên hàng đầu, không tính đến lợi ích cá nhân .Nếu con người đó vượt qua
thẩm quyền được quốc gia giao cho họ thì những điều ước quốc tế sẽ không
đựơc thực hiện .
Thể nhân, pháp nhân chỉ là người đại diện một
tổ chức nào đó, người này hoạt động nhân danh cho một nhóm người, một tổ chức
phi chính phủ, nhóm người này không có tư cách chủ thể luật quốc tế, không thể
ngang hàng với quốc gia được. Như vậy thể nhân, pháp nhân không xếp ngang hàng
với quốc gia cho nên nó không là chủ thể luật quốc tế hiện đại. Với những lý lẽ
trên, tổ chức liên chính phủ là chủ thể phái sinh, thứ sinh & chủ thể hạn
chế không có chủ quyền.
Câu 10:Cơ sở để công nhận chính phủ Defacto (chính
phủ thực tế đó) là hợp pháp
Công nhận trong luật quốc tế
hiện đại được hiểu là hành vi pháp lí mang tính chính trị của quốc gia công
nhận, dựa trên ý chí độc lập của các bên công nhận nhằm thể hiện thái độ của
mình đối với đường lối chủ trương chính sách, chế độ kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội của quốc gia được công nhận, tạo tiền đề cho việc thiết lập các
quan hệ pháp lí quốc tế, mong muốn thiết lập quan hệ bình thường với quốc gia
được công nhận.
Hình thức công nhận chính phủ
Defacto: là hình thức công nhận chính thức nhưng ở mức độ không đầy đủ &
toàn diện có nghĩa là quan hệ với nhau ở một vài lĩnh vực nào đó.
Việc công nhận quốc gia mới
này bao hàm cả việc công nhận chính phủ mới nằm trong quốc gia đó. Đây là sự
trùng hợp ngẫu nhiên của hai thể loại, song trong sự trùng lắp đó tồn tại sự
đối lập nhau vì quốc gia mới vẫn là một ,nhưng chính phủ mới có thể thay đổi.
Chính phủ mới ra đời có 2 loại:
Chính phủ hợp hiến hợp
pháp (chính phủ De Jure) chính phủ này được thành lập thông qua qui định
trong hiến pháp hoặc trong pháp luật quốc gia đó. Những chính phủ này được
thông qua trong việc bầu cử, luật quốc tế hiện đại không đặt ra việc công nhận
chính phủ hợp hiến hợp pháp.(VD: HP Pháp qui định 7 năm bầu tổng thống một lần,
tổng thống không được làm quá 2 nhiệm kỳ).
Chính phủ thực tế (chính phủ
De Facto ): chính phủ này được thành lập không phù hợp với hiến pháp & pháp
luật của quốc gia đó ,được thành lập thông qua cuộc đảo chính, luật quốc tế
hiện đại chỉ đặt ra việc công nhận chính phủ De Facto (VD: 5/ 97 Tướng quân
Cavena lật đổ tống thống nước Côngô, làm tống thống phải tị nạn ở nước ngoài
& chết ở nước ngoài)
Công nhận chính phủ mới này
không phải là công nhận chủ thể mới của luật quốc tế mà là công nhận người đại
diện “ hợp pháp” cho một quốc gia trong bang giao quốc tế.
Sự công nhận chính phủ thực
tế (CP Defacto) là hợp pháp phải dựa trên những tiêu chí sau:
Chính phủ mới phải được đông
đảo quần chúng nhdân tự nguyện, tự giác ủng hộ.
Chính phủ mới phải khả năng
duy trì & thực hiện được quyền lực của mình trong một thời gian dài ổn
định, tự giải quyết được các công việc của đất nước.
Chính phủ mới phải có khả
năng kiểm soát được toàn bộ hoặc phần lớn lãnh thổ của quốc gia đó một
cách độc lập & tự quản lí được mọi công việc của quốc gia.
Căn cứ vào 3 điều kiện trên,
tùy thuộc vào sự nhìn nhận của từng quốc gia để có sự công nhận chính phủ thực
tế đó là hợp pháp, điều này cũng có nghĩa là sẽ có những quốc gia công nhận
thực tế đó là hợp pháp nhưng cũng có những quốc gia sẽ không công nhận thực tế
đó.
11.So sánh phê chuẩn, phê
duyệt & gia nhập
Phê chuẩn là sự đồng ý chính
thức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của các bên ký kết (thông thường là cơ
quan quyền lực tối cao của nhà nước đó) xác nhận điều ước quốc tế đã có hiệu
lực đối với mình. Thông thường những điều ước quốc tế liên quan đến vấn đề
chính trị, ANQP, biên giới lãnh thổ thì phải phê chuẩn.(VD: Ở VN vấn đề này
được qui định tại điều 10 Pháp lệnh về ký kết thực hiện điều ước quốc tế năm
1993)
Phê duyệt là tuyên bố đơn
phương ( hành vi pháp lí đơn phương)của cơ quan có thẩm quyền trong nước công
nhận một đều ước quốc có hiệu lực đối với quốc gia mình.
Gia nhập là tuyên bố đơn
phương của cơ quan có thẩm quyền của quốc gia, công nhận một điều ước quốc tế
có hiệu lực đối với quốc gia mình, chính thức ràng buộc quyền và nghĩa vụ của
mình đối với một điều ước quốc tế mà mình chưa phải là thành viên của điều ước
quốc tế đó.
Giống nhau:
Phê chuẩn, phê duyệt, gia
nhập đều là hành vi đơn phương nhằm công nhận hiệu lực điều ước quốc tế đối với
quốc gia mình. Phê chuẩn, phê duyệt xác nhận điều ước quốc tế đã có hiệu
lực đối với quốc gia mình. Gia nhập chính thức ràng buộc quyền và nghĩa vụ của
mình đối với một điều ước quốc tế mà mình chưa phải là thành viên điều ước quốc
tế đó.
Khác nhau:
Về thời điểm Thời điểm gia nhập khác với
thời điểm phê chuẩn, phê duyệt. Phê chuẩn, phê duyệt được thực hiện đối với
quốc gia sáng lập ra điều ước quốc tế, trong thời điểm kí kết điều ước quốc tế
theo trình tự thủ tục phức tạp. Gia nhập điều ước quốc tế chỉ diễn ra
trong khi điều ước quốc tế đã phát sinh hiệu lực & chỉ áp dụng đối với quốc
gia chưa là thành viên tham gia ký kết điều ước quốc tế.
Về phạm vi: Phê chuẩn, phê duyệt diễn
ra cả đối với điều ước quốc tế đa phương & song phương. Gia nhập điều ước
quốc tế chỉ diễn ra đối với điều ước quốc tế đa phương.
Về thẩm quyền(Điều 32 Điều
44): Thẩm
quyền phê chuẩn điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền của cơ quan lập pháp là sự
đồng ý chính thức của cơ quan có thẩm quyền (cơ quan quyền lực tối cao) của nhà
nước đó. Thẩm quyền phê duyệt thuộc thẩm quyền cơ quan hành pháp, thường tiến
hành ở cơ quan nhà nước thấp hơn như Chính phủ, cấp Bộ... Gia nhập thì thuộc
thẩm quyền của cả cơ quan lập pháp & cơ quan hành pháp.
Về mức độ quan trọng: điều ước quốc tế cần phải
phê chuẩn ở mức độ quan trọng cao hơn, điều ước quốc tế cần phê duyệt ở mức độ
quan trong thấp hơn.
Câu 12: Phân biệt bãi bỏ điều
ước quốc tế & huỷ bỏ điều ước quốc tế
Bãi bỏ hiệu lực của điều ước
quốc tế là tuyên bố đơn phương mà quốc gia đưa ra tuyên bố nhằm chấm dứt hiệu
lực của Điều ước quốc tế nào đó đối với quốc gia mình.
Huỷ bỏ hiệu lực điều ước
quốc tế là tuyên bố đơn phương của một quốc gia nhằm chấm dứt hiệu lực của điều
ước nào đó đối với quốc gia mình mà không được qui định trong Điều ước.
Giống nhau: đều là tuyên bố đơn phương
mà quốc gia đưa ra tuyên bố nhằm chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế nào đó
đôí với quốc gia mình
Khác nhau:
Tuyên bố hủy bỏ điều ước
phải được điều ước cho phép.
Tuyên bố bãi bỏ điều ước
không cần được điều ước cho phép.
Có 5 cơ sở tuyên bố hủy bỏ
điều ước:
Có sự vi phạm về thẩm quyền
& thủ tục ký kết theo qui định của pháp luật trong nước của các bên ký kết.
Điều ước quốc tế ký kết mà
trong đó có một trong các bên chỉ hưởng quyền mà không thực hiên nghĩa vụ.
Khi xuất hiện điều khoản
Rebutsic Stantibus tức là khi hoàn cảnh trong nước bị thay đổi căn bản các bên
không thể thực hiện được điều ước vì vậy có quyền tuyên bố hủy bỏ điều ước.
Tuy nhiên trong điều khoản
này không áp dụng đối với các Điều ước về: biên giới lãnh thổ, điều ước mang
tính trung lập nhân đạo. Điều ước mà các quốc gia cam kết, nó sẽ không hết hiệu
lực cả khi xảy ra chiến tranh.
Nội dung của điều ước trái
với nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế
Khi các bên thỏa thuận chấm
dứt hiệu lực của điều ước quốc tế trường hợp này thường áp dụng cho điều ước vô
thời hạn.
Ví dụ: Điều ước thành lập
hiệp ứơc Vacsava, điều ước này qui định 20 năm nhưng thực hiện được 15 năm thì
ngồi lại thỏa thuận với nhau chấm dứt Điều ước quốc tế này.
Câu 13: Phân biệt tuyên bố
bảo lưu & tuyên bố giải thích
Bảo lưu điều ước quốc tế là
tuyên bố đơn phương của một quốc gia đưa ra ký phê duyệt, phê chuẩn hoặc gia
nhập điều ước nhiều bên nhằm loại trừ hoặc thay đổi hệ quả pháp lý của một
hoặc một số qui định của điều ước.
Giải thích điều ước quốc tế
là việc làm sáng tỏ nội dung của điều ước nhằm mục đích thực hiện điều ước một
cách kịp thời và chính xác tránh sự hiểu lầm và ngây mâu thuẩn giữa các bên.
Giống nhau: đều là tuyên bố
đơn phương của quốc gia đưa ra nhằm công nhận hiệu lực điều ước quốc tế đối với
quốc gia mình.
Khác nhau:
Về mục đích Tuyên bố bảo lưu chỉ nhằm
thay đổi một hệ quả pháp lý, lọai trừ hệ quả pháp lí của một số điều khoản nhất
định của điều ước quốc tế.
Ví dụ: VN bảo lưu điều 24
công ước Chicago ,
bảo lưu loại trừ.
Tuyên bố giải thích là việc
làm sáng tỏ nội dung sự thật của điều ước, thuật ngữ của những điều khoản trong
điều ước quốc tế nhằm mục đích thực hiện điều ước một cách kịp thời và chính
xác.
Về thời điểm đưa ra tuyên
bố: Tuyên
bố bảo lưu được thực hiện trong bất kỳ giai đoạn nào của điều ước (đàm phán,
soạn thảo, thông qua, ký kết, phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập).
Tuyên bố giải thích được
thực hiện khi điều ước quốc tế đã phát sinh hiệu lực & khi có tranh chấp
xảy ra (tức là trong quá trình thực hiện điều ước quốc tế)
Về thể loại Tuyên bố bảo lưu chỉ được áp
dụng đối với điều ước quốc tế đa phương mà không cấm bảo lưu, còn tuyên bố giải
thích điều ước quốc tế thì được áp dụng cho cả điều ước quốc tế song phương
& đa phương.
Tuyên bố bảo lưu diễn ra ở
cơ quan có thẩm quyền theo luật định, Tuyên bố giải thích do chủ thể giải thích.
Về giá trị pháp lí Tuyên bố bảo lưu có giá trị
pháp lí trên bình diện quốc tế. Còn tuyên bố giải thích do một quốc gia đơn
phương đưa ra.
Về ý nghĩa Tuyên bố bảo lưu nếu được
chấp thuận thì có giá trị pháp lí quốc tế còn tuyên bố giải thích điều ước quốc
tế thì không có giá trị pháp lí.
Câu14: Bảo lưu điều ước quốc
tế đây là một quyền hay là sự ưu tiên
Bảo lưu điều ước quốc tế là hành vi đơn
phương của một chủ thể luật quốc tế tuyên bố nhằm thay đổi hay loại trừ hệ quả
của một hay một số điều khoản nhất định của điều ước, những điều khoản đó được
gọi là điều khoản bảo lưu.
Bảo lưu điều ước đây là một quyền & quyền
này không phải là quyền tuyệt đối, bởi vì có những hạn chế sau:
Bảo lưu không diễn ra với điều ước song
phương bởi vì trong những điều ước song phương thường thỏa thuận ý chí của hai
quốc gia với nhau. Trong trường hợp một bên nào đó không thực hiện nổi một số
điều của điều ước thì đây là lời đề nghị mới của bên đối phương, nếu được bên
dối phương đồng ý. Nếu không đồng ý thì không thực hiện được quyền bảo lưu.
Đối với những điều ước đa phương mà có điều
khoản qui định hoặc các bên thỏa thuận miệng với nhau rằng không cho phép bảo
lưu thì quyền bảo lưu không được thực hiện. Đối với những điều ước nhiều bên
trong đó chỉ qui định cho phép bảo lưu một hoặc một vài điều khoản cụ thể nhất
định nào đó thì quyền bảo lưu không được thực hiện đối với những điều khoản còn
lại. Đối với những điều ước cho phép tự do lựa chọn một hoặc một số những điều
khoản nào đó để bảo lưu thì quyền bảo lưu cũng không được thực hiện đối với
những điều khoản không phù hợp với mục đích và đối tượng của điều ước.
Không phải là quyền ưu tiên vì không thể có
sự ưu tiên một điều khoản của một điều ước quốc tế đối với một quốc gia nào
khác.
Quyền bảo lưu diễn ra trong bất kỳ giai đoạn
nào của quá trình ký kết điều ước, tuy nhiên nếu điều ước qui định điều ước này
chỉ phát sinh hiệu lực sau khi phê chuẩn nhưng quốc gia lại tuyên bố bảo lưu từ
những giai đoạn đầu của quá trình ký kết điều ước quốc tế thì khi phê chuẩn
quốc gia đó nhắc lại điều khoản bảo lưu mới có gía trị pháp lý.
Quốc gia có quyền bảo lưu thì cũng có quyền
rút bảo lưu hay hủy bỏ bảo lưu trong bất kỳ thời điểm nào xét thấy cần thiết.
Bảo lưu có giá trị một năm kể từ khi đưa ra
tuyên bố bảo lưu mà không có quốc gia nào phản đối.
Thực tiễn bảo lưu của VN:
VN bảo lưu những điều khoản điều ước qui định
phải đưa những tranh chấp bất đồng về việc giải thích hoặc áp dụng điều ước ra
trước trụ sở quốc tế để giải quyết hoặc thông qua một thủ tục giải quyết bắt
buộc khác bất kể các bên tranh chấp có đồng ý hay không.
VN ta bảo lưu những điều khỏan của diều ước
quốc tế không phù hợp với những quan điểm mang tính chất chỉ đạo của nhà
nước ta.
Ví dụ: Nguyên tắc mang tính chất của VN là
bình đẳng nam nữ mà công ước về người phụ nữ khi lấy chồng nước ngoài mặc nhiên
mất đi quốc tịch của mình điều này đi ngược lại với nguyên tắc nam nữ bình đẳng
cho nên VN đã bảo lưu công ước trên.
VN bảo lưu những điều khoản hạn chế sự tham
gia của một số quốc gia & phong trào giải phóng dân tộc.
Ví dụ: Điều 48, 50 tại Công ước viên 1961 về
quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao...Chỉ những quốc gia nào không phải là
thành viên của Liên hiệp quốc thì được Liên hiệp quốc cho phép tham gia thì mới
trở thành thành viên của điều ước trên.
Câu 15 So sánh giữa người
hai quốc tịch & không quốc tịch
Người có hai quốc tịch là tình trạng pháp lý
của một người xét cùng một lúc mang quốc tịch của hai quốc gia khác nhau.
Người không quốc tịch là tình trạng pháp lý của
người không là công dân của quốc gia nào.
Giống nhau
Do pháp luật của các nước có qui định khác
nhau về cách thức hưởng & mất quốc tịch. Do kết hôn, li hôn nhận làm con
nuôi mà có yếu tố nước ngoài. Người 2 quốc tịch là họ được hưởng quốc tịch
một nước nhưng chưa mất quốc tịch, còn người không quốc tịch là do họ thôi quốc
tịch cũ nhưng chưa được nhập quốc tịch mới.
Khác nhau
Đối với người có hai quốc
tịch: cả
hai nước mà họ mang quốc tịch đều coi người đó là công dân nước mình dẫn đến
hậu quả bất lợi cho đương sự, khó khăn trong việc yêu cầu được bảo hộ ngoại
giao, các quốc gia đều coi họ là công dân dẫn đến tranh chấp quyền bảo hộ ngoại
giao đối với đương sự.
Đối với người không quốc
tịch: không
được hưởng quyền & nghĩa vụ công dân của bất kỳ quốc gia nào. Không được
hưởng quyền & nghĩa vụ theo những điều ước quốc tế mà quốc gia sở tại dành
cho người nước ngoài. Không được hưởng bảo hộ ngoai giao của bất kỳ nước nào,
do vậy địa vị pháp lí của người không quốc tịch rất thấp kém.
Đối với người hai quốc tịch thì những quan hệ thuộc đối
tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế thì áp dụng nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu
, cụ thể coi người hai quốc tịch là công dân một trong hai nước & cho phép
nước đó bảo hộ ngoại giao cho người đó.
Đối với người không quốc tịch thì pháp luật quốc gia phải qui định về những điều
kiện thuận lợi hơn đơn giản hơn về mặt thủ tục để người đó có thể gia nhập quốc
tịch vào nước mình.
Câu 16: Thế nào là điều ước
quốc tế? văn bản nào của quốc tế và Việt Nam điều chỉnh về ký kết điều ước quốc
tế? cho biết sự khác biệt giữa trình tự thủ tục ký kết điều ước quốc tế song
phương và đa phương?
- Điều 2 Công ước Vienna 1969 hoặc trình bày như sau: điều ước
quốc tế là thỏa thuận pháp lý giữa các quốc gia và một số chủ thể khác của luật
quốc tế trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng nhằm ấn định, thay đổi và chấm dứt
các quyền và nghĩa vụ đối với nhau trong bang giao quốc tế phù hợp với các
nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại;
- Công ước Vienna 1969 về Luật điều ước quốc tế; Luật Ký kết, thực hiện
và gia nhập Điều ước quốc tế của Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm
2006- Sự khác biệt giữa trình tự thủ tục ký kết điều ước quốc tế song phương và
đa phương chủ yếu là thủ tục bảo lưu và gia nhập.
Câu 17:Anh/chị cho biết cách xác định nội thuỷ và lãnh hải
của quốc gia ven biển? Trong điều kiện bình thường, tàu biển có được quyền “qua
lại không gây hại” trên phần nội thuỷ và lãnh hải của quốc gia ven biển không?
(1điểm)
- Nội thủy là vùng nước phía bên trong đường cơ sở,
phía ngoài giáp với lãnh hải và phía trong giáp bờ biển, do quốc gia tự tuyên
bố trên cở sở thông lệ quốc tế. Luật biển quốc tế và pháp luật của các quốc gia
đều xác định tính chất chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối cho vùng nước nội thủy,
đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như không phận phía trên vùng nước nội
thủy. Trong mọi trường hợp tàu biển muốn qua lại phải được phép của quốc gia
ven biển mới có thể được quyền qua lại ở vùng này.
- Lãnh hải là vùng biển rộng không quá 12 hải lý
tính từ đường cơ sở, việc xác định bề rộng thực tế và ranh giới ngoài của lảnh
hải phụ thuộc vào việc vạch đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Lãnh
hải thuộc chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ của quốc gia ven biển, chủ quyền cũng
bao trùm vùng trời phía trên, phần đáy và vùng đất dưới đáy của phần lãnh hải.
Luật quốc tế quy định trong điều kiện bình thường tàu biển được quyền qua lại
không gây hại ở vùng này mà không cần xin phép quốc gia ven biển (Công ước Luật
biển 1982).
Câu 18: Theo Luật quốc tế hiện đại, anh/chị cho biết văn
bản nào của quốc tế và Việt Nam
điều chỉnh về ký kết điều ước quốc tế? cho biết sự khác biệt giữa trình tự thủ
tục ký kết điều ước quốc tế song phương và đa phương? Nếu điều ước quốc tế quy
định không cho rút khỏi, thì thành viên chính thức của văn kiện có đựơc quyền
rút khỏi hay không? tại sao? (1điểm)- Công ước Vienna 1969 về Luật điều ước quốc tế;
Luật Ký kết, thực hiện và gia nhập Điều ước quốc tế của Việt Nam, có hiệu lực
từ ngày 01 tháng 01 năm 2006;
- Sự khác biệt giữa trình tự thủ tục ký kết điều ước
quốc tế song phương và đa phương chủ yếu là thủ tục bảo lưu và gia nhập;
- Thành viên chính
thức của văn kiện có đựơc quyền rút khỏi với điều kiện xảy ra như sau:
+ Khi một bên nào đó chỉ hưởng quyền, nhưng không thực hiện nghĩa vụ
của mình; hoặc
+ Khi một hay nhiều bên vi phạm nghiêm trọng những điều khoản trong
điều ước; hoặc
+ Do sự thay đổi của hoàn cảnh, có biến cố bất thường dẫn đến việc
không thể thực hiện được điều ước.
No comments:
Post a Comment